ღღღ«—°ღ°—».. sân chơi chung..°ღ°—»ღღღ
chào bạn mừng bạn đã tới thăm forum

xin mời :
đăng nhập / đăng kí
ღღღ«—°ღ°—».. sân chơi chung..°ღ°—»ღღღ
chào bạn mừng bạn đã tới thăm forum

xin mời :
đăng nhập / đăng kí
ღღღ«—°ღ°—».. sân chơi chung..°ღ°—»ღღღ
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ღღღ«—°ღ°—».. sân chơi chung..°ღ°—»ღღღ

forum là lơi thể hiện đẳng cấp của thành viên TrườngTHPTNinhGiangII
 
Trang ChínhPortalLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Latest topics
» SỬA MÁY TÍNH , MÁY IN, ĐỔ MỰC MÁY IN TẠI NHÀ HỒ CHÍ MINH
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeThu Mar 01, 2012 6:47 am by tuquynh

» vietpon mua sản phẩm chất lượng, giá tốt.
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeWed Oct 05, 2011 7:37 am by tuquynh

» Học tiếng Nhật - Top Globis
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeWed Oct 05, 2011 7:24 am by tuquynh

» Học tiếng Nhật - Top Globis
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeThu Sep 01, 2011 2:54 am by tuquynh

» Khai giảng lớp luyện thi N3 tại Trung tâm Nhật Ngữ Top Globis
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeMon May 23, 2011 7:48 am by tuquynh

» VietPon.com -Mạng giảm giá cao cấp của Nhật chính thức ra mắt
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeMon May 23, 2011 7:44 am by tuquynh

» video quay nen admin choi gai' o? Do^` So*n
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeWed Apr 06, 2011 9:50 am by nhok_11b

» TỔNG KHAI GIẢNG CÁC LỚP NHẬT NGỮ TẠI TOP GLOBIS
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeFri Feb 11, 2011 4:13 am by tuquynh

» PHẢN XẠ NGẪU NHIÊN LIÊN TỤC-p2 Học tiếng Nhật mới
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeFri Feb 11, 2011 4:06 am by tuquynh

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
May 2024
MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
CalendarCalendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu
Top posters
replaydie (343)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
maianhbao (251)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
lilanhvuong (180)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
nhok_11b (79)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
/Pi-a/*The.Be0 (69)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
nguyenvanhung (63)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
™∙—Ñước…Mắ†—∙™ (55)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
coldprincess (47)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
kunkun (39)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
Thuong VIP (28)
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! EmptyvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_voting_barvAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty 
âm nhạc

 

 vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!!

Go down 
Tác giảThông điệp
replaydie
mode
mode
replaydie


Tổng số bài gửi : 343
Points : 1018
Join date : 10/04/2010
Age : 30
Đến từ : Hiep Luc

vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! Empty
Bài gửiTiêu đề: vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!!   vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!! I_icon_minitimeSat Apr 17, 2010 6:02 pm

Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước công nguyên, còn tính từ khi nhà nước được hình thành thì mới khoảng từ hơn 4000 năm trước đây (theo truyền thuyết)[1].

Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống tại Việt Nam từ thời kỳ Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn tại vùng này đã phát triển về chăn nuôi và nông nghiệp, đặc biệt là nghệ thuật trồng lúa nước.

Những người Việt tiền sử trên vùng châu thổ sông Hồng-Văn minh sông Hồng và sông Mã này đã khai hóa đất để trồng trọt, tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự nước lụt của các sông, đào kênh để phục vụ cho việc trồng lúa và đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã.

Đến thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ 7 trước công nguyên đã xuất hiện nhà nước đầu tiên của người Việt trên miền Bắc Việt Nam ngày nay, theo sử sách đó là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng[2]

Mục lục [ẩn]
1 Tiền sử
1.1 Thời đại đồ đá
1.2 Thời đại đồ đồng đá
1.3 Thời đại đồ đồng
1.4 Thời đại đồ sắt
2 Thời Hồng Bàng
2.1 Nước Xích Quỷ
2.2 Nước Văn Lang
2.3 Nước Âu Lạc
3 Thời Bắc thuộc
3.1 Nước Nam Việt
3.2 Thuộc Hán
3.3 Sau thuộc Hán đến trước thuộc Đường
3.4 Thuộc Đường
3.5 Ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam
4 Thời phong kiến độc lập
4.1 Xây dựng đất nước
4.2 Đàng Ngoài-Đàng Trong
4.3 Mở rộng lãnh thổ về phương Nam
4.4 Thống nhất đất nước
5 Thời Pháp thuộc
6 Tuyên bố độc lập
6.1 Chiến tranh Đông Dương
7 Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh
7.1 Đất nước chia cắt
7.2 Chiến tranh lan rộng
8 Thống nhất
8.1 Giai đoạn mới gần đây
9 Sự thay đổi tên
9.1 Thời Hồng Bàng
9.2 Nam Việt
9.3 Thời Bắc thuộc
9.4 Thời phong kiến độc lập
9.5 Thời Pháp thuộc
9.6 Giai đoạn từ năm 1945 đến hiện nay
10 Ghi chú
11 Tham khảo
12 Liên kết ngoài
13 Xem thêm


[sửa] Tiền sử
Loạt bài
Các văn hóa cổ Việt Nam
Hậu kỳ Thời đại đồ đá cũ
Văn hóa Ngườm (23.000 TCN)
Văn hóa Sơn Vi (20.000 - 12.000 TCN)
Văn hóa Soi Nhụ (18.000 - 7.000 TCN)
Thời đại đồ đá mới
Văn hóa Hòa Bình (12.000 - 10.000 TCN)
Văn hóa Bắc Sơn (10.000 - 8.000 TCN)
Văn hóa Quỳnh Văn (8.000 - 6.000 TCN)
Văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 TCN)
Văn hóa Đa Bút (6.000 - 5.000 TCN)
Thời đại đồ đồng đá
Văn hóa Hạ Long (3.000 - 1.500 TCN)
Văn hóa Phùng Nguyên (2.000 - 1.500 TCN)
Văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc
Văn hóa Tiền Sa Huỳnh (2.000 - 1.000 TCN)
Trung kỳ thời đại đồ đồng
Văn hóa Đồng Đậu (1.500 - 1.000 TCN)
Hậu kỳ thời đại đồ đồng
Văn hóa Gò Mun (1.000 - 600 TCN)
Thời kỳ đồ sắt
Văn hóa Đông Sơn (700 TCN - 100)
Văn hóa Sa Huỳnh (1.000 TCN - 200)
Văn hóa Đồng Nai (1.000 TCN - 0)
Văn hóa Óc Eo (1 - 630)
sửa


Bài chi tiết: Việt Nam thời tiền sử
Lịch sử Việt Nam thời kỳ tiền sử (trước thời Hồng Bàng) chỉ được ghi nhận, dự đoán thông qua các di tích khảo cổ; các truyền thuyết, dã sử đều có sau giai đoạn này.

[sửa] Thời đại đồ đá
Bài chi tiết: Văn hóa Sơn Vi, Văn hóa Hòa Bình, và Văn hóa Bắc Sơn
Khu vực nay là Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ Đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ đã tìm ra các dấu vết người vượn cư ngụ tại hang thẩm hai, thẩm khuyên (Lạng Sơn), núi Đọ, Ninh Bình và Nga Sơn, Thanh Hóa cách đây hàng trăm nghìn năm. Thời kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó nối liền với bán đảo Malaysia, đảo Java, Sumatra và Kalimantan của Indonesia, với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ[3]. Người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ một mặt, tạo nên những công cụ mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, nạo... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ (mảnh tước). Những di tích ở núi Đọ được coi là bằng chứng cổ xưa nhất về sự có mặt của con người tại vùng đất Việt, khi tổ chức xã hội loài người chưa hình thành[4]

Vào thời kỳ mà các nhà nghiên cứu gọi là văn hóa Sơn Vi, những nhóm cư dân nguyên thủy tại đây đã sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng cách đây 11-23 nghìn năm, cuối thời thế Canh Tân (Late Pleistocene).

Sau thời kỳ văn hóa Sơn Vi là văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, thuộc thời kỳ đồ đá mới.

Các nhà khảo cổ đã liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời kỳ Đồ đá mới và đầu thời kỳ đồ đồng (vào khoảng hơn 5700 năm trước Công Nguyên)[5]..

[sửa] Thời đại đồ đồng đá
Bài chi tiết: Văn hóa Phùng Nguyên
Nền văn hóa Phùng Nguyên, nằm xung quanh tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ ngày nay, xuất hiện từ khoảng năm 2000 TCN đến năm 1350 TCN[6].

[sửa] Thời đại đồ đồng
Bài chi tiết: Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa Gò Mun
[sửa] Thời đại đồ sắt
Bài chi tiết: Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo
Đến khoảng 1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn cho thấy sự ảnh hưởng lên Đông Nam Á và cũng minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây. Nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Nền văn hóa Đông Sơn có điểm giống nhau với những nền văn hóa được khai quật khác tại Đông Nam Á (Khu mộ thuyền Prâyviêng, Cánh đồng Chum - Lào, Các khu di tích khảo cổ Phukhet - Thái lan v.v.)[cần dẫn nguồn], ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen.




[sửa] Thời Hồng Bàng
Loạt bài
Lịch sử Việt Nam
Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I (207 TCN - 40)
Nhà Triệu (207 - 111 TCN)
Hai Bà Trưng (40 - 43)
Bắc thuộc lần II (43 - 541)
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương (541 - 602)
Bắc thuộc lần III (602 - 905)
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng
Tự chủ (905 - 938)
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô (938 - 967)
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh (968 - 980)
Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Nhà Lý (1009 - 1225)
Nhà Trần (1225 - 1400)
Nhà Hồ (1400 - 1407)
Bắc thuộc lần IV (1407 - 1427)
Nhà Hậu Trần
Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê (1428 - 1788)
Lê sơ

trung
hưng Nhà Mạc
Trịnh-Nguyễn
phân tranh

Nhà Tây Sơn (1778 - 1802)
Nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Pháp thuộc (1887 - 1945)
Đế quốc Việt Nam (1945)
Chiến tranh Đông Dương (1945 - 1975)
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976)
Xem thêm

Vua Việt Nam
Nguyên thủ Việt Nam
Các vương quốc cổ
Niên biểu lịch sử Việt Nam

sửa


Bài chi tiết: Hồng Bàng
[sửa] Nước Xích Quỷ
Theo một số tài liệu cổ sử chưa có căn cứ chắc chắn[7], các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền bắc Việt Nam. Truyền thuyết cho biết nhà nước của các tộc người Việt được hình thành từ năm 2879 TCN tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam-Trung Quốc). Đến thời Xuân Thu-Chiến Quốc (thế kỷ 8 TCN đến thế kỷ 3 TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền bắc Trung Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy tỵ nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất lãnh thổ, bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Đỉnh điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía nam Quảng Đông[8].

Vương quốc của các tộc người Việt cổ (Xích Quỷ) thời kỳ này có thể nói đây là một liên bang lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam [9]...

Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan rã của nhà nước liên minh của các tộc người Việt, từ thế kỷ 7 trước công nguyên trở đi từ các bộ tộc Việt cư trú tại các khu vực khác nhau ở miền nam sông Dương Tử đã hình thành nên các nhà nước khác nhau ở từng khu vực cũng như thời kỳ như: nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt,...các nhà nước độc lập này từng bước bị các vương triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại, hoặc là tự nội chiến với nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ vương triều Hán vào đầu công nguyên các nhà nước Việt hoàn toàn bị diệt vong[10].

[sửa] Nước Văn Lang

Lãnh thổ nước Văn Lang năm 500 TCNTheo tục truyền, các đời Hùng Vương trị vì nước Văn Lang của người Lạc Việt (tên này được ghi trong sử sách người Trung Quốc) được thành lập vào khoảng thế kỷ 7 TCN tại khu vực miền bắc Việt Nam ngày nay, đóng đô tại Phong Châu (Phú Thọ). Người Lạc Việt được xem như là tổ tiên của người Việt Nam hiện đại.

Các tài liệu nghiên cứu hiện đại[11] phần lớn đều đồng ý theo Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN - 682 TCN) ở Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam và đã có giao lưu với nước Việt (Yue) của Việt vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang - Trung Quốc ngày nay.

[sửa] Nước Âu Lạc
Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán từ nước Thục (phía đông bắc Văn Lang) của người Âu Việt đã đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 và lập nên nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương.

Theo các nguồn sử liệu khác nhau, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị vua Nam Việt là Triệu Đà ở liền kề phía bắc thôn tính năm 208 TCN (hoặc 179 TCN).

[sửa] Thời Bắc thuộc
Xem thêm: Vấn đề chính thống của nhà Triệu
Theo các quan điểm khác nhau của các sử gia về vấn đề Triệu Đà và nhà Triệu, thời điểm bắt đầu của thời kỳ Bắc thuộc cũng khác nhau. Nếu nhà Triệu được tính là một triều đại Việt Nam, thời Bắc thuộc bắt đầu từ năm 111 TCN khi nhà Hán diệt nhà Triệu. Nếu Triệu Đà không được xem là vua Việt Nam, thời kỳ này bắt đầu từ 207 TCN (hoặc 179 TCN).

[sửa] Nước Nam Việt
Xem thêm: Nhà Triệu
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là quan úy quận Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN) đã cát cứ vùng đất quận Nam Hải, đánh chiếm các khu vực lân cận như Âu Lạc, Quế Lâm (Quảng Tây ngày nay).

Khi Lưu Bang lên ngôi nhà Hán, Triệu Đà khôi phục và thống nhất các khu vực ông quản lý ở Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay và tạo ra một vương quốc tên là Nam Việt (南越). Chữ "Việt" (越 Yue) là tên được người Trung Quốc đặt cho những người sống ở vùng đất phía nam của đế quốc nhà Hán, kể cả khu vực đồng bằng sông Hồng. Triệu Đà chia vương quốc Nam Việt thành 9 quận, ba quận phía nam - Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân - là phần đất của Âu Lạc. Các Lạc hầu vẫn cai quản vùng châu thổ sông Hồng, nhưng với địa vị chư hầu cho Nam Việt.

[sửa] Thuộc Hán
Xem thêm: Hai Bà Trưng

Lãnh thổ Việt Nam thuộc nhà Hán năm 87 TCNNăm 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Đông Nam Á[12]. Trong thế kỷ thứ 1, các tướng Lạc vẫn còn được giữ chức, Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng hóa các lãnh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn. Một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) hưởng ứng trong năm 40. Sau đó nhà Hán phái tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn áp. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên không đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết trên dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được coi là sự kiện đấu tranh giành lại quyền độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

[sửa] Sau thuộc Hán đến trước thuộc Đường
Xem thêm: Nhà Tiền Lý
Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp khác như Đông Ngô, nhà Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương lần lượt thay nhau đô hộ Việt Nam, người Việt cũng đã nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu dành độc lập.

Các cuộc nổi dậy tiêu biểu như khởi nghĩa anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh vào thời thuộc Đông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh em Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến từ thời bắc thuộc Lưu Tống, Nam Tề từ năm 468 đến 485.

Năm 541, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa, đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tư nhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những năm kế tiếp, Lý Bí tự xưng đế tức là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 544. Đến năm Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục đánh đuổi được quân Lương năm 550, bảo vệ được nước Vạn Xuân. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương, đến năm 571 một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 30 năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.

[sửa] Thuộc Đường
Bài chi tiết: Bắc thuộc lần 3
Kế tiếp nhà Tùy, nhà Đường đô hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía đông đánh nước Cao Ly lập ra An Đông đô hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ.

Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống bắc thuộc của người Việt như khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa Phùng Hưng và khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ 7 đến thế kỷ 9.

Từ sau loạn An Sử (756-763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía nam. An Nam đô hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Champa, Chà Và vào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi gọi là Tĩnh Hải quân.

Cuối thế kỷ 9 nhà Đường bị suy yếu trầm trọng sau cuộc nổi loạn của Hoàng Sào và các chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm 905, một hào trưởng địa phương người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm giữ thủ phủ Đại La, bắt đầu thời kỳ tự chủ của người Việt.

[sửa] Ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam
Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Trong hơn 1.000 năm bị Trung Hoa cai trị, người Việt chịu ảnh hưởng bởi thể chế chính trị, xã hội và văn hóa của phương Bắc.

Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đông Á. Mặc dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương[13].

[sửa] Thời phong kiến độc lập
Bài chi tiết: Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ
[sửa] Xây dựng đất nước

Chùa Một Cột xây dựng ở thế kỷ 11Năm 905 Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho Việt Nam giành độc lập. Năm 939 Ngô Quyền xưng vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước đoàn quân Nam Hán, đến năm 968 Đinh Bộ Lĩnh xưng đế và đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Đại Cồ Việt trải qua các triều đại nhà Đinh, nhà Tiền Lê và 40 năm đầu của nhà Lý. Năm 1054 vua Lý Thánh Tông đổi tên thành Đại Việt, Đại Việt trải qua nhiều chế độ phong kiến: nhà Lý (thế kỷ 11, 12), nhà Trần (thế kỷ 13, 14), nhà Hồ (đầu thế kỷ 15), nhà Hậu Lê (thế kỷ 15, 16, 17, 18), Nhà Mạc (thế kỷ 16), nhà Tây Sơn (cuối thế kỷ 18).

Trong thời kỳ này các vương triều phương bắc ở Trung Hoa, Mông Cổ mang quân sang xâm lược, nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đẩy lui 2 lần quân nhà Tống (năm 981 và 1076), nhà Trần đánh bại quân Mông Cổ năm 1258 và kế tiếp là nhà Nguyên vào năm 1285 và 1288. Đầu thế kỷ 15 nhà Minh xâm chiếm được Đại Việt và cai trị trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi năm 1428 và thành lập nhà Hậu Lê, Năm 1789 nhà Thanh sang xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 18 trở đi phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu.

Từ thế kỷ 10 tới thế kỷ 14, các triều đại Đại Việt xây dựng nhà nước trên cơ sở Phật giáo cùng với những ảnh hưởng Nho giáo từ Trung Quốc. Tới cuối thế kỷ 14, ảnh hưởng của Phật giáo dần thu hẹp và ảnh hưởng của Nho giao tăng lên, sự phát triển nhà nước Nho giáo theo mô hình kiểu Trung Hoa, sang đến thế kỷ 15 thì Đại Việt có một cơ cấu chính quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa, cơ cấu luật pháp, hành chính, văn chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa.

Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp lương thực, từng triều đại đã lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt, đào kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các vùng đất đồng bằng ven biển để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động thương mại, ngoại thương cũng đã được hình thành. Vào thời nhà Lý, nhà Trần đã có buôn bán với các vương quốc trong vùng ở Trung Hoa, Java, Xiêm La tại cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), thời Hậu Lê đã có buôn bán thêm với Châu Âu, Nhật Bản tại các trung tâm như Thăng Long và Hội An

[sửa] Đàng Ngoài-Đàng Trong
Bài chi tiết: Trịnh-Nguyễn phân tranh

Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650Bắt nguồn từ thời kỳ Nam-Bắc triều, năm 1527, sau khi giành ngôi từ nhà Hậu Lê, Mạc Đăng Dung đã lập nên nhà Mạc. Nhà Hậu Lê được tái lập vài năm sau đó với sự giúp đở của Nguyễn Kim, một tướng cũ và dành được sự kiểm soát khu vực từ Thanh Hóa vào Bình Định. Sau khi Nguyễn Kim chết, người con rể là Trịnh Kiểm đã dành quyền bính, 60 năm kế tiếp Trịnh Kiểm và các con cháu của ông đã dành được chiến thắng trước nhà Mạc vào năm 1592 và mở đầu cho thời kỳ đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thời kỳ vua Lê chúa Trịnh

Sự mâu thuẩn giữa hai người cận thần của nhà Hậu Lê là Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng (trấn thủ xứ Thuận Hóa và Quảng Nam) đã bắt đầu cho sự phân chia đất nước ra thành hai lãnh thổ, hai chính quyền riêng biệt là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Các con cháu của Trịnh Kiểm lần lượt kế tiếp nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài được gọi là các chúa Trịnh, các con cháu của Nguyễn Hoàng kế tiếp nhau cầm quyền ở Đàng Trong được gọi là các chúa Nguyễn, các vua Lê chỉ là danh vị hoàng đế của Đại Việt trên danh nghĩa.


Chùa Cầu do các thương nhân Nhật Bản góp công xây dựng ở thế kỷ 17Thời kỳ đất nước chia thành 2 lãnh thổ riêng biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong cũng là thời kỳ hoạt động ngoại thương sôi động, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tham gia vào hệ thống giao thương toàn cầu bởi các thương nhân Châu Âu, Nhật Bản, Trung Hoa đến Đại Việt buôn bán. Người Hà Lan, Anh, Pháp lập các thương điếm tại Kẻ Chợ (Hà Nội), người Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản đặt các thương điếm tại Faifo (Hội An). Các mặt hàng chính được xuất khẩu từ Đại Việt là tơ lụa, hồ tiêu, gốm sứ. Tuy nhiên, sang đến thế kỷ 18 thì hoạt động thương mại giảm sút ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài[14].

Cùng với sự giao thương buôn bán với các nước phương Tây, đạo Công giáo cũng bắt đầu được truyền vào Đại Việt qua các giáo sĩ công giáo phương Tây theo các tàu buôn vào giảng đạo ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, lúc đó các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều ngăn cấm, nên ảnh hưởng của Công giáo ở Việt Nam trong thời kỳ này còn hạn chế.

[sửa] Mở rộng lãnh thổ về phương Nam
Bài chi tiết: Nam tiến

Lãnh thổ Việt Nam mở rộng sau các cuộc Nam tiến (1069-1757)Dấu ấn về sự mở rộng đất nước trong thời kỳ phong kiến này là sự bành trướng xuống phương Nam, cuộc Nam tiến nhằm tìm đất nông nghiệp để cung cấp lương thực cho sự gia tăng dân số của Đại Việt. Với một quân đội có tổ chức tốt hơn, từ thế kỷ 11 đến thể kỷ 15, sau các cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Champa, lãnh thổ Đại Việt đã được mở rộng thêm từ đèo Ngang (Quảng Bình) tới núi Thạch Bi (Phú Yên).

Từ thế kỷ 17, Đàng Trong là một lãnh thổ, chính quyền riêng biệt với Đàng Ngoài. Nhằm tiếp tục tìm kiếm thêm diện tích đất đai cho sự gia tăng dân số, cũng như tăng cường quyền lực các chúa Nguyễn đã lần lượt tiến hành các cuộc chiến tranh với Champa và sát nhập hoàn toàn phần lãnh thổ còn lại của người Chăm (từ Phú Yên tới Bình Thuận) vào năm 1693.

Tiếp đó, sau các cuộc di dân của người Việt từ Đàng Trong vào sinh sống ở vùng đất của người Khmer, các chúa Nguyễn lần lượt thiết lập chủ quyền từng phần trên vùng đất Nam Bộ, sau các cuộc chiến với vương quốc Khmer, vương quốc Ayutthaya cũng như các yếu tố chính trị khác, các chúa Nguyễn đã giành được hoàn toàn Nam Bộ ngày nay vào sự kiểm soát của mình vào năm 1757.

Sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến này. Văn hóa Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ chịu ảnh hưởng phần nào của văn hóa Champa, văn hóa Khmer. Ngày nay, người miền Bắc tiết kiệm, bảo vệ nhóm, giỏi ứng xử; người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong suy nghĩ và thẳng thắn[15]. Tổ chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc đã được đơn giản hóa ở miền Nam[16].

[sửa] Thống nhất đất nước
Bài chi tiết: Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802)

An Nam Đại Quốc họa đồ năm 1838Từ giữa thế kỷ 18, các cuộc chiến liên tục giữa Đàng Trong với vương quốc Khmer, Ayutthaya cũng như các cuộc tranh chấp ở Đàng Ngoài làm cho đời sống người dân thêm cùng quẫn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra, song phần lớn chịu thất bại. Tới phong trào nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ năm 1771 tại Quy Nhơn (Bình Định) đã phát triển rộng lớn đánh bại hai chế độ cai trị của hai họ Nguyễn, Trịnh, chấm dứt việc chia đôi đất nước, cũng như bãi bỏ nhà Hậu Lê vốn chỉ còn trên danh nghĩa. Nhà Tây Sơn đã đánh bại 5 vạn quân Xiêm La (năm 1784) tại miền Nam và 20 vạn quân Mãn Thanh (năm 1789) xâm lược tại miền Bắc. Nguyễn Huệ chính thức trở thành vua của Đại Việt lấy niêu hiệu là Quang Trung, thống nhất hầu hết lãnh thổ từ miền Bắc vào tới Gia Định, tuy nhiên sau cái chết của ông năm 1792, nội bộ lục đục khiến chính quyền Tây Sơn càng ngày càng suy yếu.

Một người thuộc dòng dõi chúa Nguyễn ở miền Nam là Nguyễn Phúc Ánh, với sự hậu thuẫn của một số người Pháp, đã đánh bại được nhà Tây Sơn vào năm 1802. Ông lên làm vua, lấy niên hiệu là Gia Long và trở thành vị vua đầu tiên cai trị một đất nước thống nhất với hai đồng bằng phì nhiêu nối với nhau bằng một dải duyên hải, năm 1804 ông cho đổi tên nước từ Đại Việt thành Việt Nam.

Gia Long (1802-1820) đóng đô ở Huế, ông cho xây dựng kinh đô Huế tương tự như Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Gia Long và con trai Minh Mạng (cai trị 1820-1841) đã cố gắng xây dựng Việt Nam theo khái niệm và phương pháp hành chính Trung Hoa. Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại diện tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ) đã đặt ra yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp - thương mại, nhưng họ chỉ là thiểu số. Đáp lại, vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883) chọn chính sách đã lỗi thời là coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ nông vi bản) và ngăn cản Thiên chúa giáo, tôn giáo từ phương Tây.

Những nhà truyền giáo người Pháp thực ra đã có mặt ở Việt Nam từ giữa thế kỷ 17. Họ cũng hỗ trợ nhân lực và vật lực cho nhà Nguyễn trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Đến giữa thế kỷ 19, có khoảng 450.000 người cải đạo sang Thiên chúa giáo [17]. Chính quyền thực sự lo ngại sự hình thành của một tôn giáo có tổ chức nên đã sát hại những người theo đạo Thiên chúa giáo và san bằng nhiều xóm đạo.

[sửa] Thời Pháp thuộc
Bài chi tiết: Pháp thuộc
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng.


Quân Pháp tấn công quân Thanh tại Lạng Sơn năm 1885Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn cho đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945 và quốc trưởng từ 1949 đến 1956). Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp nhưng thất bại.

Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phủ toàn quyền Đông Dương (ban đầu thủ phủ ở Sài Gòn, năm 1902 đặt ở Hà Nội). Đứng đầu Phủ toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3 kỳ là: Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1893 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao.


Việt Nam bị chia làm 3 kỳ thuộc Liên bang Đông DươngNhững người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (giống Quốc Dân Đảng ở Trung Hoa) năm 1927. Tuy nhiên, đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, một số thanh niên Việt Nam theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận Bình dân trong chính quyền Pháp.

Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật tấn công toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền thân Nhật với quốc vương Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim, đặt quốc hiệu mới đế quốc Việt Nam và quốc kỳ là cờ quẻ ly.

Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) thành lập năm 1941 với vai trò một mặt trận của Đảng Cộng sản Đông Dương được điều hành từ Pắc Bó (ở biên giới Việt-Trung) bởi Hồ Chí Minh khi ông trở về nước lần đầu tiên kể từ 1911 (năm ông rời Việt Nam), mặc dù ông có liên hệ với những người Cộng sản trong nước trong các thập niên 1920 và 1930.

Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này [18].

[sửa] Tuyên bố độc lập
Ngày 11 Tháng Ba năm 1945 khi quân đội Nhật Bản làm cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Bảo hộ của Pháp thì hoàng đế Bảo Đại có ra một chiếu chỉ với nguyên văn:

Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia Độc lập.[19]
Trần Trọng Kim được bổ nhiệm làm thủ tướng một quốc gia mới với danh xưng Đế quốc Việt Nam nhưng đến Tháng Tám khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh thì lực lượng Việt Minh đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Họ kém thành công hơn ở miền Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đầu năm 1946, một cuộc bầu cử toàn quốc đã được tổ chức. Những người Cộng sản chiếm ưu thế, song các phe phái khác cũng được mời tham gia chính phủ một cách rộng khắp. Quốc kì được chọn là cờ đỏ, sao vàng 5 cánh.

[sửa] Chiến tranh Đông Dương
Bài chi tiết: Chiến tranh Đông Dương

Sư đoàn 308 tiến vào tiếp quản thủ đô Hà Nội năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên PhủTuy nhiên, Việt Nam chưa thực sự có được độc lập. Ở miền Bắc, Đồng Minh chỉ định quân đội quốc gia Trung Hoa giải giới Nhật Bản. Quân Trung Hoa duy trì ở đó đến tháng 5 năm 1946 rồi chuyển giao cho Pháp trong sự chịu đựng của chính quyền Hồ Chí Minh. Ngược lại, ở miền Nam, quân Nhật được giải giới bởi quân Anh-Ấn. Nhưng sau đó, quân Anh-Ấn chán nản vì Sài Gòn quá hỗn độn đã chuyển giao cho Pháp. Cuối năm 1945, Pháp trở lại miền Nam Việt Nam. Trong suốt năm 1946, chính quyền Hồ Chí Minh thương lượng với Pháp, mặc dù hai bên cũng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh. Chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ tháng 12 năm 1946.

Vào đầu năm 1947, Pháp có vẻ thắng và nắm được toàn bộ vị trí chiến lược của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Minh kiên trì với chiến lược "chiến tranh nhân dân", tổ chức và đào tạo dân chúng cho một cuộc chiến vũ trang lâu dài. Trong thời gian này, Pháp dựng lên một chính quyền bù nhìn đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại với tên gọi là quốc gia Việt Nam năm 1949, với cờ quẻ ly là quốc kì. Chính quyền này có sự tham gia của các quan lại cũ thân Pháp. Năm 1950, chính quyền cộng sản Trung Hoa và Liên Xô bắt đầu trợ giúp Việt Minh với nhân lực và vật lực. Bên kia, Pháp được Mỹ hậu thuẫn, nhưng đầu thập niên 1950, Pháp bắt đầu yếu đi ở Đông Dương. Thất bại ở trận Điện Biên Phủ (gắn liền với tên tuổi nhà chiến lược quân sự Việt Minh Võ Nguyên Giáp) vào tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hoàn toàn nỗ lực của Pháp nhằm giữ Việt Nam và toàn bộ Đông Dương.

[sửa] Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh
[sửa] Đất nước chia cắt
Sau trận chiến Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại Genève năm 1954 để tìm kiếm phương cách giải quyết chiến tranh. Kết quả Hiệp định Genève được ký kết với nội dung là một cuộc đình chiến và tạm phân đôi Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc được lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh dưới tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Miền Nam được lãnh đạo bởi Bảo Đại (thoái vị năm 1945 và trở thành quốc trưởng bù nhìn dưới quyền Pháp năm 1949) dưới tên Quốc gia Việt Nam. 1.100.000 người đa số theo Thiên chúa giáo và ở miền Bắc đã di cư vào Nam.

Chính quyền Hồ Chí Minh xem Hiệp định Genève là một thắng lợi quan trọng vì hiệp định này nằm trong dự định cho một cuộc tổng tuyển cử vào năm 1956 để thành lập một quốc gia thống nhất, một cuộc tuyển cử mà họ cho rằng họ sẽ thắng vì vai trò phổ biến của Hồ Chí Minh lúc đó. Tuy nhiên cuộc tuyển cử đã không bao giờ diễn ra. Người Pháp triệt thoái, nhưng Người Mỹ lại hậu thuẫn Ngô Đình Diệm, một tín đồ Thiên chúa giáo và một người quốc gia bảo thủ, lên làm Thủ tướng dưới quyền Bảo Đại. Năm 1955, Ngô Đình Diệm thắng trong cuộc trưng cầu dân ý, cho phép ông lên làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa. Bảo Đại lưu vong sang Pháp. Ngô Đình Diệm từ chối tham gia vào tổng tuyển cử toàn quốc.

Ở miền Bắc, chính quyền Hồ Chí Minh kêu gọi những giá trị mang tính cộng đồng, hướng lên xã hội chủ nghĩa, bao gồm nông nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đã ủng hộ hết mình cho chính quyền Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, những công cuộc cải cách ruộng đất theo chỉ dẫn của cố vấn Trung Quốc[cần dẫn nguồn] trong thập niên 1950 đã đưa hơn 170.000 người thuộc diện địa chủ-phú nông ra đấu tố, cầm tù, giết hại [20] đã tạo ra sự xáo trộn đời sống xã hội miền Bắc trong giai đoạn đầu. Mặt khác nhiều trí thức, nhà văn, nhà báo đã bị đưa đi cải tạo, kiểm điểm hoặc treo bút vì viết bài không đúng ý nhà cầm quyền trong cuộc thanh trừng Nhân văn Giai phẩm

Tại miền Nam, Mỹ bắt đầu giúp chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng một nền kinh tế thị trường[21]. Tuy nhiên những xáo trộn chính trị vào cuối thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong xã hội miền Nam. Chính quyền mới bắt đầu thực thi những chính sách "Tố cộng", "Diệt cộng", nhiều cuộc thảm sát xảy ra như Vĩnh Trinh, Hướng Điền (Quảng Trị), ở nhà tù Phú Lợi (tàn sát hàng trăm tù nhân cộng sản bằng hơi độc). Và đàn áp tôn giáo nhất là đạo Phật vốn chiếm số đông trong các tầng lớp dân chúng.

Từ năm 1959, chính quyền miền Bắc hậu thuẫn cho tổ chức Mặt trận Giải phóng Dân tộc (MTGPDT). MTGPDT kêu gọi lòng yêu nước và giá trị đạo lý của người Việt Nam, hứa hẹn chống lại sự can thiệp Mỹ và thành lập chính quyền tốt đẹp hơn. Điểm lưu ý là vào năm 1959, số người Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài trăm người, dưới hình thức là các "cố vấn" cho chính quyền Ngô Đình Diệm

Đầu thập niên 1960, quân vũ trang của MTGPDT tấn công rộng lớn ở nông thôn miền nam, và mở nhiều cuộc đánh bom ở Sài Gòn. Tổng thống Mỹ John F. Kennedy tăng cường viện trợ cho Ngô Đình Diệm và gửi 17.500 "cố vấn" Mỹ đến Việt Nam vào năm 1963. Cả thế giới lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo khi một loạt các cuộc biểu tình của hàng vạn Phật tử nổ ra ở các thành thị chủ yếu của miền nam. Điển hình có vụ nhà sư Phật giáo, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu phản đối chế độ Ngô Đình Diệm.

Sau sự kiện đàn áp Phật giáo năm 1963, uy tín của chính quyền Ngô Đình Diệm giảm sút mạnh trong phần lớn tầng lớp dân chúng cũng như trong quân đội. Cùng với kết quả chống MTGPDT không đạt được mục tiêu, Hoa Kỳ ý định thay đổi chính quyền Ngô Đình Diệm bằng thông cáo tới các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa kêu gọi họ chống lại những chính sách quá khắt khe của Ngô Đình Diệm[cần dẫn nguồn]. Tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đảo chính và ám sát Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa.

Không lâu sau khi Ngô Đình Diệm chết, Kennedy bị ám sát và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson lên làm tổng thống Mỹ. Mới lên làm tổng thống, Johnson tuyên bố sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng hòa (ngày 24 tháng 11 năm 1963).

Cái chết của Ngô Đình Diệm làm cho miền Nam càng thêm bất ổn. Giới lãnh đạo quân sự mới quá thiếu kinh nghiệm trong chính trị, không thể thâu tóm được quyền lực trung ương như dưới thời Ngô Đình Diệm. Việc đảo chính lan tràn khắp miền Nam đã cho chính quyền miền Bắc nhiều lý do tin rằng đã đến lúc họ có thể trực tiếp can thiệp vào miền Nam.

[sửa] Chiến tranh lan rộng
Bài chi tiết: Chiến tranh Việt Nam
Năm 1964, những trận đụng độ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tàu khu trục do thám của Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ (ngày 7 tháng 4 năm 1964) là nguyên cớ khiến Johnson ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam tham chiến. Về sau này người ta mới được biết khi đó Hoa Kì sợ hiệu ứng domino cộng sản nên đã cố tình tìm cách can thiệp vào Việt Nam và gây ra vụ này.

Chiến tranh Việt Nam bắt đầu bùng nổ năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với Campuchia và Lào, và các trận không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam. Một bên chiến cuộc là Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và các đồng minh Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, Philippines. Một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGP). Liên Xô và Trung Quốc cung cấp hỗ trợ quân sự cho Bắc Việt Nam và MTDTGP nhưng không gửi quân sang (cố vấn Trung quốc và Bắc Hàn được xác nhận đã hiện diện tại miền Bắc vào những năm chiến tranh).


Biệt động cho nổ bom giữa Sài Gòn năm 1965Ngày 8 tháng 3 năm 1965, 3.500 lính thủy quân lục chiến (Marine Corps) Hoa Kỳ trở thành lính chiến đấu Mỹ đầu tiên đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, cộng thêm 25.000 cố vấn Mỹ đang ở đây. Ngày 24 tháng 7 năm 1965, Mỹ không kích Bắc Việt Nam. Ngày 29 tháng 7, 4.000 lính nhảy dù của Sư đoàn Không vận thứ 101 (của Hoa Kỳ) đến Việt Nam, đổ bộ ở Vịnh Cam Ranh. Ngày 18 tháng 8, 5.500 hải quân Mỹ đụng độ trận đầu tiên với MTDTGP ở đồn Vạn Tường (Quảng Ngãi).

Ở miền Bắc, quân Mỹ ném bom phá huỷ làng mạc, nhà cửa, khu dân cư, làm hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải đi sơ tán[cần dẫn nguồn], cơ sở hạ tầng bị tàn phá nghiêm trọng. Còn ở miền Nam, chiến tranh lan rộng, người dân miền Nam thường sống trong lo sợ vì bom đạn đánh nhau ở mọi nơi. Chất độc màu da cam được quân đội Mỹ sử dụng gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và làm khoảng 4,8 triệu người sống ở các tỉnh dọc đường Trường Sơn và biên giới Campuchia bị nhiễm chất độc da cam/dioxin[22].

Năm 1967, tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống của nền Đệ nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa, ông duy trì ghế Tổng thống đến năm 1975.

Cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 của quân Bắc Việt Nam và MTDTGP vào hầu hết các thành phố chính của miền Nam Việt Nam (ngày 30 tháng 1 năm 1968) tuy thất bại về mặt quân sự nhưng đã làm cho Johnson và dân chúng Mỹ mất lòng tin vào khả năng chiến thắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Ngày 30 tháng 10 năm 1968, trong vòng đàm phán hòa bình tại Paris, Johnson tuyên bố dừng hoàn toàn "tất cả cuộc không kích, pháo kích và hải chiến với Bắc Việt Nam", có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 1968.

Tuy nhiên, một năm sau, tổng thống kế nhiệm, Richard Nixon, thông báo Mỹ quay trở lại Chiến tranh Việt Nam. Nixon và cố vấn Henry Kissinger cho ra đời thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh", theo đó: giảm quân Mỹ và tăng viện trợ, tăng quân Nam Việt Nam ở mọi cấp độ, gia tăng không kích cả Bắc và Nam Việt Nam, cũng như tại Campuchia để tiêu diệt quân Bắc Việt Nam đang đồn trú ở đây.


Mỹ rút quân khỏi Việt Nam năm 1973, theo Hiệp định ParisCùng lúc đó hội đàm Paris đã được khởi động lại giữa Mỹ và Bắc Việt Nam/MTDTGP. Mãi đến tháng 1 năm 1973, Hiệp định Hòa bình Paris mới được ký giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời của MTDTGP sau sự thất bại nặng nề của các cuộc không kích vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác ở miền Bắc Việt Nam do không lực Hoa kỳ tiến hành cuối năm 1972. Điều khoản đầu tiên của hiệp định công nhận sự "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam. Các điều khoản khác là đình chiến và giữ lãnh thổ của mỗi bên trước khi đình chiến, hoãn tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rõ Hoa Kỳ phải triệt thoái quân hoàn toàn trong vòng 60 ngày.

Nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn, hai bên quân đội tại Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm điều khoản đình chiến trong hiệp định Paris. Tháng 8 năm 1974, Nixon từ chức vì vụ Watergate. Tinh thần quân đội Việt Nam Cộng hòa suy giảm nghiêm trọng vì tổng thống mới của Mỹ, Gerald Ford, không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm nhiều tiền cho chiến trường Việt Nam. Giữa tháng 3 năm 1975, quân đội VNDCCH/MTDTGP mở cuộc tấn công ở Tây Nguyên khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng lần lượt thất thủ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân miền Bắc chiếm được Sài Gòn, chính quyền của tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Người Mỹ cuối cùng bỏ chạy khỏi đây chỉ 2 giờ trước đó, song song với cuộc tháo chạy của quân đội Việt Nam Cộng hòa.

[sửa] Thống nhất
Ngày 25 tháng 4 năm 1976, hai miền của Việt Nam được thống nhất thành một quốc gia có tên chính thức là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.

Tuy nhiên, do những sai lầm của giới lãnh đạo, chủ trương thống nhất mọi mặt theo tiêu chuẩn miền Bắc (thí dụ, kế hoạch xã hội hóa toàn bộ kinh tế miền Nam nhằm hợp nhất với kinh tế miền Bắc) đã làm cho quốc gia mới này rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nhóm các nhà lãnh đạo chủ trương cấp tiến bị thất sủng, phe bảo thủ thắng thế, lên nắm quyền và phạm liên tiếp các sai lầm[cần dẫn nguồn]. Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, một phần do thiên tai và lũ lụt năm 1977 và 1978. Hậu quả của các sai lầm về lãnh đạo và kinh tế đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế và nạn đói, gây ra một làn sóng người vượt biên chưa từng có trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1978[cần dẫn nguồn]. Từ tiếng Anh boat people (thuyền nhân) lần đầu tiên xuất hiện cũng do sự kiện này.

Cuối năm 1978, Việt Nam đưa quân vào Campuchia và đánh đuổi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ của Pol Pot, sau khi quân Khmer Đỏ tấn công các tỉnh Tây Ninh và Kiên Giang. Để trả đũa, Trung Quốc, vốn ủng hộ chế độ Pol Pot, tấn công biên giới phía bắc của Việt Nam, gây ra cuộc Chiến tranh biên giới Trung-Việt năm 1979. Sự kiện này đã gây nên cuộc khủng hoảng "nạn kiều" ở trong nước. Đầu thập niên 1980, nhiều người Hoa và Việt gốc Hoa chạy khỏi Việt Nam về Trung Hoa hoặc gia nhập nhóm "thuyền nhân" chạy sang nước khác.

Những sai lầm đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng làm suy yếu uy tín của các nhà lãnh đạo bảo thủ và tạo điều kiện để nhóm cấp tiến giành lại chính quyền[cần dẫn nguồn]. Năm 1985, những cải cách của Mikhail Sergeyevich Gorbachov ở Liên Xô đã kích thích mạnh mẽ những người cải cách ở Việt Nam[cần dẫn nguồn].

Trong thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt trầm trọng, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.

[sửa] Giai đoạn mới gần đây
Bài chi tiết: Đổi mới
Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI tiến hành chính sách "Đổi mới", đứng đầu là ông Nguyễn Văn Linh, để hợp lý hóa cơ cấu hành chính, cải cách cơ cấu đảng, chính quyền pháp quyền, dân chủ hơn, cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường.

Công cuộc đổi mới được phát hành toàn diện, từ một nước nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài thành nước xuất khẩu. Trước 1989, Việt Nam nhập khẩu lương thực nhưng từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu: 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; và tăng dần hàng năm: 4,4 triệu tấn (năm 2004), 4,9 triệu tấn (năm 2005), đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%) và năm 2005 lạm phát chỉ còn 8,5%.

Trong thời gian 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6 năm 1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ 67,1% (1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,7% (1996).

Năm 2004 Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng là 7,7% cao hơn mức tăng trưởng năm trước và đứng vị trí thứ hai trong khu vực sau Singapore. (Tổng sản phẩm quốc nội đạt 35 tỷ USD, khoảng bằng GDP của bang Mecklenburg–Vorpommern của Đức). Sự phát triển bền vững được thể hiện qua sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu (tăng 30%) cũng như sự tăng trưởng của sản xuất công nghiệp và xây dựng (10,2%). Năm 2005, tăng trưởng GDP của Việt Nam là 8,4%.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.

Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và gia nhập khối ASEAN, APEC..., ngày 7 tháng 11 năm 2006 đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới.

[sửa] Sự thay đổi tên
Bài chi tiết: Quốc hiệu Việt Nam
Tên gọi của Việt Nam qua các thời như sau:

[sửa] Thời Hồng Bàng
Xích Quỷ: Thời Kinh Dương Vương vào năm 2879 TCN
Văn Lang: Thời Hùng Vương
Âu Lạc: Thời An Dương Vương
[sửa] Nam Việt
(thuộc)Nam Việt: thời nhà Triệu, vương quốc Nam Việt gồm lãnh thổ Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây
[sửa] Thời Bắc thuộc
Giao Chỉ bộ: Bắc thuộc thời Hán, bộ Giao Chỉ gồm miền bắc Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây
Lĩnh Nam: Giai đoạn độc lập ngắn ngủi dưới thời Hai Bà Trưng, năm (40-43)
Giao Châu: Bắc thuộc từ thời Đông Ngô đến thời Đường
Vạn Xuân: Giai đoạn độc lập ngắn dưới thời nhà Tiền Lý năm (542-602)
An Nam: Bắc thuộc thời Đường (618-866)
Tĩnh Hải quân: tiếp tục trong thời thuộc Đường qua thời Tự chủ tới hết thời nhà Ngô (866-967)
[sửa] Thời phong kiến độc lập
Đại Cồ Việt: thời Nhà Đinh-nhà Tiền Lê và đầu thời Nhà Lý, từ 968-1054
Đại Việt: thời Nhà Lý-Nhà Trần, từ 1054-1400
Đại Ngu: thời Nhà Hồ, từ 1400-1407
Đại Việt: thời Nhà Hậu Lê-Nhà Tây Sơn và 3 năm đầu thời nhà Nguyễn, từ 1428-1802
Việt Nam: thời Nhà Nguyễn, từ năm 1804-1839
Đại Nam: thời Nhà Nguyễn, từ năm 1839-1887
[sửa] Thời Pháp thuộc
(thuộc)Liên bang Đông Dương: Từ năm 1887, Pháp chia Việt Nam ra làm 3 xứ tương đương với 3 vương quốc là Tonkin (Bắc kỳ), Annam (Trung kỳ), Cochinchine (Nam kỳ), cả 3 đều nằm trong Liên bang Đông Dương
[sửa] Giai đoạn từ năm 1945 đến hiện nay
Đế quốc Việt Nam: tháng 4 năm 1945 - tháng 8 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim
Quốc gia Việt Nam: 1949 - 1955 với quốc trưởng Bảo Đại do Pháp dựng lên
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976
Việt Nam Cộng hòa: tồn tại từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay.
[sửa] Ghi chú
^ Đại Việt sử ký toàn thư, phần ngoại kỷ, Ngô Sĩ Liên
^ Việt sử lược, khuyết danh, Trần Quốc Vượng dịch
^ Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam
^ Núi Đọ
^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 29
^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 43
^ Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư
^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 126-127
^ Lịch Đạo Nguyên chú giải, Thủy kinh chú
^ Cổ sử Việt Nam, Đào Duy Anh
^ Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB VHTT, 2005, tr.21
^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 158
^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 285
^ William Dampier, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế Giới, 2007, tr.10
^ Khắc Thành - Sanh Phúc, Lịch sử các nước Đông Nam Á, NXB Trẻ, 2003, tr.268
^ Khắc Thành - Sanh Phúc, Lịch sử các nước Đông Nam Á, NXB Trẻ, 2003, tr.268
^ Khắc Thành-Sanh Phúc, Lịch sử các nước Đông Nam Á, NXB Trẻ, 2003
^ Tuổi Trẻ online
^ Hà Thúc Ký. Sống còn với Dân tộc, hồi ký chính trị. ?:Phương Nghi, 2009. tr 83
^ Lịch sử Kinh tế Việt Nam, tập 2: giai đoạn 1955-1975, NXB Lao Động Xã Hội 2002
^ Kinh tế miền Nam Việt Nam thời kỳ 1955-1975, NXB KHXH 2004
^ [You must be registered and logged in to see this link.]
[sửa] Tham khảo
Đại Việt Sử Ký toàn thư và một số sách sử dạng PDF
Ngô Sỹ Liên và Nguyễn Huy Oánh, Quốc sử toản yếu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2004
Trần Trọng Kim: Việt Nam Sử Lược
Đại Việt sử ký toàn thư
Việt Sử lược, người dịch: Trần Quốc Vượng
An Nam chí lược, tác giả: Lê Tắc (Lê Trắc)
Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp
[sửa] Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về:
Lịch sử Việt Nam
Các sách sử dưới dạng PDF tại Viện Việt học
Nguyễn Quốc Bình Văn hóa Đông Sơn
Phạm Quân Khanh và Phạm Thị Tuyết Mai, Lịch sử Việt Nam
Thanh Văn nhận xét về tác phẩm Cội nguồn Việt tộc của Phạm Trần Anh
Nguyễn Văn Huyên, Đồ đồng cổ Đông Sơn
Trương Thái Du, Tiếng trống đồng Mê Linh và Thử viết lại cổ sử Việt Nam
Hà văn Thùy, Lời cáo chung cho thuyết Aurousseau về nguồn gốc người Việt
Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động
Về Đầu Trang Go down
 
vAi` nEt" vE^k liCk sU*? ViE^t. nAm!!!
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Teen girl và những kiểu đùa "quái gở"
» Những "kỉ lục"... quái gở của làng giải trí Việt
» choi nhieu acc tren 1 may 6073 "HOT"
» hack tu suong lever cuc "hot"
» Doc. De? Hoc.!Tan" gai"2">N0<tranh xa ra nhe"!

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
ღღღ«—°ღ°—».. sân chơi chung..°ღ°—»ღღღ :: góc học tập :: sử-
Chuyển đến